Nhiều bạn thường thắc mắc khi thấy máy tính của mình khởi động chậm, ì ạch hơn rất nhiều sau một thời gian dùng máy tính. Có nhiều lý do trên dẫn đến tình trạng trên và dưới đây là những nguyên nhân thường gặp :
1.Máy tính cài chương trình diệt virut khá " nặng "
Dễ nhận thấy, chương trình diệt virus càng hiệu quả thì lại càng can thiệp sâu vào hệ thống máy tính. Điều đó dẫn đến việc tốc độ xử lý của máy bị giảm đi đáng kể sau khi được bảo vệ bởi những chương trình như Norton Anti Virus hay Mcafee… Biện pháp xử lý lúc này tất nhiên không phải là gỡ bỏ chúng vì như vậy chẳng khác nào mở cửa cho các loại sâu hay virus thâm nhập vào máy tính. Hướng giải quyết đơn giản là nếu như cấu hình của máy tính bạn không thuộc vào dạng hàng “khủng” như dòng Duo Core ......thì nên chuyển sang chương trình bảo vệ nhẹ hơn, phù hợp với cấu hình máy tính cá nhân.
2.Quá nhiều chương trình được kích hoạt khi khởi động máy
Nhà sản xuất phần mềm nào cũng đều muốn chương trình mình được sử dụng nhiều nhất. Điều đó dẫn đến việc hầu hết các chương trình sau khi được cài đặt đều tự cho mình quyền được xuất hiện ngay sau khi Windows khởi động. Chính việc đó làm cho tài nguyên máy bị chiếm dụng vô cùng lãng phí, trong khi chủ nhân của máy chưa chắc đã có nhu cầu dùng đến những chương trình này. Vì thế, khi install (cài đặt) một software (phần mềm), bạn nên để ý đến những câu hỏi như: “Bạn có muốn chương trình này được chạy khi Windows khởi động không?”. Càng ít chương trình được chạy khi khởi động, máy tính của bạn sẽ càng chạy nhanh. Nếu phần mềm đã cài không cho phép chỉnh sửa việc này, chạy Run và gõ msconfig, chọn Start up và tích bỏ chương trình không cần xuất hiện khi khởi động máy( thường thì nỏ hết - enable ).
3.Gỡ bỏ các phần mềm không theo đúng quy trình
Nếu bạn cài đặt một chương trình bằng việc Install, tất nhiên khi không còn cần dùng đến phần mềm đó, bạn phải sử dụng chức năng Uninstall để gỡ bỏ. Thế nhưng rất nhiều nhà sản xuất lại chỉ để ý đến việc làm sao cho chương trình của mình chạy được trên máy tính, mà “quên mất” chức năng ngược lại khiến nhiều người lúng túng khi muốn xóa. Ngay cả khi bạn xóa hết toàn bộ các file chương trình đó trong Program Files, vẫn còn rất nhiều thông số hệ thống “mắc” lại trong registry của máy, làm cho máy tính chạy chậm đi. Hướng giải quyết ở đây là: vào Control Panel/Add or Remove Program để gỡ bỏ chương trình cần uninstall.
4.Ổ cứng bị phân mảnh
Khi liên tục copy, xóa các file trên ổ cứng, ổ cứng sẽ có hiện tượng bị phân mảnh, làm giảm tốc độ đọc các chương trình của máy tính. Thông thường sau khoảng vài tháng đưa vào sử dụng, bạn nên sử dụng chức năng chống phân mảnh mà Microsoft cung cấp để tăng tốc độ đọc ổ. Click chuột phải vào ổ cần thao tác, chọn Properties/Tools/Defragmentation. Mặc dù việc xử lý này sẽ tương đối mất thời gian tùy thuộc vào dung lượng ổ cứng và số các chương trình trên ổ. Sau khi quá trình Defragmentation được hoàn tất, bạn sẽ cảm nhận rõ sự thay đổi về tốc độ CPU.
5.Bộ nhớ đệm ko hợp lý
Khi RAM máy tính bị tận dụng hết công suất ( thường thì dùng trong đồ họa hay tận dụng hết công suất) máy tính sẽ viện đến một công cụ hỗ trợ rất đắc lực là bộ nhớ ảo (Virtual Memory). Tuy nhiên nếu cài đặt không hợp lý, bạn sẽ thường xuyên gặp phải thông báo: “Virtual Memory Too Low”. Sửa bộ nhớ ảo bằng cách click chuột phải vào My Computer/Properties chọn Advanced > Performance > Settings, chọn tiếp Advanced/Virtual Memory/Change. Tại đây bạn chọn Initial Size và Maximum size cho hợp lý với lượng RAM máy tính và dung lượng ổ cứng. Thông thường nếu RAM là 512 MB và dung lượng ổ cứng còn trống là khoảng vài GB thì nên để Initial Size = Maximum size = 1000.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản nhất, mọi ngừoi bổ sung thêm nhá !
Cas xin phép được đính chính 2 điều như sau:
+ Về vấn đề gỡ bỏ chương trình không đúng cách. Giải pháp xử lý của bạn như Cas biết thì đã có sự hiểu nhầm. Gỡ bằng chức năng Uninstall của chương trình cung cấp với gỡ bằng Add or Remove Programs (ARP) đều có kết quả như nhau. Đơn giản là vì nếu chương trình có cung cấp chức năng Uninstall sẵn, ARP chỉ đơn giản là gọi chương trình đó. Còn nếu không thì chương trình sẽ thêm 1 khóa registry để có thể sử dụng ARP, gọi 1 công cụ gỡ chương trình sẵn có của windows. Phần mềm bạn cài sẽ cung cấp 1 file info để chương trình đó của windows biết cần phải xóa những file nào và những khóa nào trong registry.
+ Vấn đề tiếp theo là về bộ nhớ ảo. Bộ nhớ ảo này không ảnh hưởng quá nhiều đến quá trình khởi động. Thậm chí, nếu RAM của bạn đủ lớn (khoảng 1.5GB với XP, >2GB với Vista) thì bạn nên disable chức năng này đi sẽ tăng tốc độ của máy. Vì tốc độ truy xuất HDD thấp hơn nhiều so với tốc độ truy xuất RAM. Thực chất, cái Virtual Memory là một file swap trên ổ cứng, có chức năng như tên gọi là tráo đổi. Thứ nhất là Khi máy sử dụng nhiều RAM thì máy sẽ đưa bớt những dữ liệu hiện tại chưa dùng đến vào file đó, như bạn nói. Thứ 2, khi máy bạn mở nhiều chương trình cùng 1 lúc. Mặc dù RAM chưa hết, nhưng Windows cũng để dữ liệu của chương trình đang active trong RAM và chuyển phần dữ liệu của chương trình inactive vào file Swap. Khi máy khởi động, thì các dịch vụ (services) của windows luôn được nạp vào RAM, do cần thiết cho sự hoạt động của windows nên nó ko nạp vào file swap. Còn các chương trình startup, nói chung đều có kích thước nhỏ, không tốn quá nhiều bộ nhớ để phải chuyển vào file Swap. Nhưng nếu để nhiều chương trình startup tất nhiên sẽ tốn CPU time và việc khởi động sẽ chậm hơn, do sự đa nhiệm (đa tác vụ) là do CPU chia thời gian, luân phiên chạy các process. Càng nhiều Process thì càng tốn nhiều thời gian để chuyển qua lại giữa các Process.
1.Máy tính cài chương trình diệt virut khá " nặng "
Dễ nhận thấy, chương trình diệt virus càng hiệu quả thì lại càng can thiệp sâu vào hệ thống máy tính. Điều đó dẫn đến việc tốc độ xử lý của máy bị giảm đi đáng kể sau khi được bảo vệ bởi những chương trình như Norton Anti Virus hay Mcafee… Biện pháp xử lý lúc này tất nhiên không phải là gỡ bỏ chúng vì như vậy chẳng khác nào mở cửa cho các loại sâu hay virus thâm nhập vào máy tính. Hướng giải quyết đơn giản là nếu như cấu hình của máy tính bạn không thuộc vào dạng hàng “khủng” như dòng Duo Core ......thì nên chuyển sang chương trình bảo vệ nhẹ hơn, phù hợp với cấu hình máy tính cá nhân.
2.Quá nhiều chương trình được kích hoạt khi khởi động máy
Nhà sản xuất phần mềm nào cũng đều muốn chương trình mình được sử dụng nhiều nhất. Điều đó dẫn đến việc hầu hết các chương trình sau khi được cài đặt đều tự cho mình quyền được xuất hiện ngay sau khi Windows khởi động. Chính việc đó làm cho tài nguyên máy bị chiếm dụng vô cùng lãng phí, trong khi chủ nhân của máy chưa chắc đã có nhu cầu dùng đến những chương trình này. Vì thế, khi install (cài đặt) một software (phần mềm), bạn nên để ý đến những câu hỏi như: “Bạn có muốn chương trình này được chạy khi Windows khởi động không?”. Càng ít chương trình được chạy khi khởi động, máy tính của bạn sẽ càng chạy nhanh. Nếu phần mềm đã cài không cho phép chỉnh sửa việc này, chạy Run và gõ msconfig, chọn Start up và tích bỏ chương trình không cần xuất hiện khi khởi động máy( thường thì nỏ hết - enable ).
3.Gỡ bỏ các phần mềm không theo đúng quy trình
Nếu bạn cài đặt một chương trình bằng việc Install, tất nhiên khi không còn cần dùng đến phần mềm đó, bạn phải sử dụng chức năng Uninstall để gỡ bỏ. Thế nhưng rất nhiều nhà sản xuất lại chỉ để ý đến việc làm sao cho chương trình của mình chạy được trên máy tính, mà “quên mất” chức năng ngược lại khiến nhiều người lúng túng khi muốn xóa. Ngay cả khi bạn xóa hết toàn bộ các file chương trình đó trong Program Files, vẫn còn rất nhiều thông số hệ thống “mắc” lại trong registry của máy, làm cho máy tính chạy chậm đi. Hướng giải quyết ở đây là: vào Control Panel/Add or Remove Program để gỡ bỏ chương trình cần uninstall.
4.Ổ cứng bị phân mảnh
Khi liên tục copy, xóa các file trên ổ cứng, ổ cứng sẽ có hiện tượng bị phân mảnh, làm giảm tốc độ đọc các chương trình của máy tính. Thông thường sau khoảng vài tháng đưa vào sử dụng, bạn nên sử dụng chức năng chống phân mảnh mà Microsoft cung cấp để tăng tốc độ đọc ổ. Click chuột phải vào ổ cần thao tác, chọn Properties/Tools/Defragmentation. Mặc dù việc xử lý này sẽ tương đối mất thời gian tùy thuộc vào dung lượng ổ cứng và số các chương trình trên ổ. Sau khi quá trình Defragmentation được hoàn tất, bạn sẽ cảm nhận rõ sự thay đổi về tốc độ CPU.
5.Bộ nhớ đệm ko hợp lý
Khi RAM máy tính bị tận dụng hết công suất ( thường thì dùng trong đồ họa hay tận dụng hết công suất) máy tính sẽ viện đến một công cụ hỗ trợ rất đắc lực là bộ nhớ ảo (Virtual Memory). Tuy nhiên nếu cài đặt không hợp lý, bạn sẽ thường xuyên gặp phải thông báo: “Virtual Memory Too Low”. Sửa bộ nhớ ảo bằng cách click chuột phải vào My Computer/Properties chọn Advanced > Performance > Settings, chọn tiếp Advanced/Virtual Memory/Change. Tại đây bạn chọn Initial Size và Maximum size cho hợp lý với lượng RAM máy tính và dung lượng ổ cứng. Thông thường nếu RAM là 512 MB và dung lượng ổ cứng còn trống là khoảng vài GB thì nên để Initial Size = Maximum size = 1000.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản nhất, mọi ngừoi bổ sung thêm nhá !
Cas xin phép được đính chính 2 điều như sau:
+ Về vấn đề gỡ bỏ chương trình không đúng cách. Giải pháp xử lý của bạn như Cas biết thì đã có sự hiểu nhầm. Gỡ bằng chức năng Uninstall của chương trình cung cấp với gỡ bằng Add or Remove Programs (ARP) đều có kết quả như nhau. Đơn giản là vì nếu chương trình có cung cấp chức năng Uninstall sẵn, ARP chỉ đơn giản là gọi chương trình đó. Còn nếu không thì chương trình sẽ thêm 1 khóa registry để có thể sử dụng ARP, gọi 1 công cụ gỡ chương trình sẵn có của windows. Phần mềm bạn cài sẽ cung cấp 1 file info để chương trình đó của windows biết cần phải xóa những file nào và những khóa nào trong registry.
+ Vấn đề tiếp theo là về bộ nhớ ảo. Bộ nhớ ảo này không ảnh hưởng quá nhiều đến quá trình khởi động. Thậm chí, nếu RAM của bạn đủ lớn (khoảng 1.5GB với XP, >2GB với Vista) thì bạn nên disable chức năng này đi sẽ tăng tốc độ của máy. Vì tốc độ truy xuất HDD thấp hơn nhiều so với tốc độ truy xuất RAM. Thực chất, cái Virtual Memory là một file swap trên ổ cứng, có chức năng như tên gọi là tráo đổi. Thứ nhất là Khi máy sử dụng nhiều RAM thì máy sẽ đưa bớt những dữ liệu hiện tại chưa dùng đến vào file đó, như bạn nói. Thứ 2, khi máy bạn mở nhiều chương trình cùng 1 lúc. Mặc dù RAM chưa hết, nhưng Windows cũng để dữ liệu của chương trình đang active trong RAM và chuyển phần dữ liệu của chương trình inactive vào file Swap. Khi máy khởi động, thì các dịch vụ (services) của windows luôn được nạp vào RAM, do cần thiết cho sự hoạt động của windows nên nó ko nạp vào file swap. Còn các chương trình startup, nói chung đều có kích thước nhỏ, không tốn quá nhiều bộ nhớ để phải chuyển vào file Swap. Nhưng nếu để nhiều chương trình startup tất nhiên sẽ tốn CPU time và việc khởi động sẽ chậm hơn, do sự đa nhiệm (đa tác vụ) là do CPU chia thời gian, luân phiên chạy các process. Càng nhiều Process thì càng tốn nhiều thời gian để chuyển qua lại giữa các Process.