Congvien_it
Moderator
Quảng Đà - mảnh đất biết bao gắn bó, tự hào
Chuyện về con người, cuộc chiến đấu ở Quảng Đà nhớ sao cho đủ, nói sao cho hết. Lạ lùng thay, không chỉ cán bộ và người dân Quảng Đà yêu mến tự hào mảnh đất này. Đông đảo cán bộ các cơ quan Khu ủy 5 ngày ấy ai cũng muốn có dịp, nhiều dịp được cử đi công tác Quảng Đà. Nhận nhiệm vụ rồi nói nhỏ với nhau “Mình đi Quảng Đà đây”, là đồng chí, đồng đội đều hiểu đi đến nơi ác liệt nhất, đi đến nơi đầu sóng, ngọn gió; đi đến mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ; đi đến nơi ai cũng tha thiết muốn có mặt.
<table class="image center" align="center" width="620"> <tbody> <tr> <td align="center">
Cuối năm 1962, sau Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại Nà Cau (Tiên Phước) tiếp nhận và quán triệt quyết định của Khu ủy về việc chia tách, đoàn cán bộ Quảng Đà hành quân về làng Đào (Hiên) mở Đại hội vào tháng 1-1963 (hiện chưa xác định chính xác ngày) quyết định nhiều vấn đề quan trọng để mở rộng giành quyền làm chủ nông thôn, đẩy mạnh phong trào đô thị, đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt và bầu BCH Đảng bộ tỉnh Quảng Đà gồm 15 đồng chí, do đồng chí Hồ Nghinh làm Bí thư.
Ở Đại hội này, Đảng bộ không bầu Phó Bí thư vì như có ý chờ đồng chí Trần Thận, lúc ấy đang đi Bắc chữa bệnh. Cuối năm 1963, đồng chí trở về và được bổ sung làm Phó Bí thư. Vậy là 15 đồng chí khai cơ của Đảng bộ có tên là Tỉnh ủy Quảng Đà giờ đây chỉ còn 3 người: đồng chí Trần Thận, đồng chí Nguyễn Duy Hưng (Sáu Hưng) và đồng chí Trần Tốc. 50 năm, dẫu chỉ là một thoáng của lịch sử cũng đã có biết bao biến đổi.
<table class="image center" align="center" width="620"> <tbody> <tr> <td align="center">
Bây giờ, đường lối đấu tranh đã rõ, cách đánh đã có với muôn ngàn sáng tạo, vùng giải phóng chưa rộng lớn nhưng huyện nào cũng có mấy xã như một bàn đạp sẵn sàng. Lực lượng chưa nhiều, chưa mạnh nhưng đủ sức đương đầu với quân đội Sài Gòn, được Mỹ trang bị đủ đầy. Còn lòng dân thì vẫn thủy chung với Đảng, với ngọn cờ vàng sao.
Có thể nói từ đây, danh xưng Quảng Đà đã xuất hiện với biết bao tự hào, thương mến.
Quảng Đà - tự cái tên này - đã bao gồm trong đó Đà Nẵng. Dù có lúc Đà Nẵng là Đảng bộ trực thuộc Khu ủy 5, có lúc lại là một bộ phận của Quảng Đà và trong một thời gian khá dài, đồng chí Hồ Nghinh, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đà kiêm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.
Thật khó có một đơn vị cấp tỉnh nào như Quảng Đà lại có đủ 3 vùng chiến lược mà vùng nào cũng có những đặc điểm nổi trội.
<table class="quote center" align="center" height="1" width="527"> <tbody> <tr> <td>Vùng đại ngàn Trường Sơn, nơi mà bây giờ mỗi khi nhắc tới, chúng tôi vẫn nói với nhau: Đây là căn cứ địa thần thánh của cách mạng, ở đây chúng tôi có những bà con các dân tộc trung kiên chí cốt, ngàn nghĩa vạn tình. Họ đang sống với nhiều nét văn hóa xa xưa và đang sản xuất với phương thức nguyên thủy: phát, đốt, chọc, tỉa, vậy mà Đảng bộ Quảng Đà đã ghi nhận chưa bao giờ kẻ địch đạt được sự kiểm soát ở vùng núi miền tây. Hơn thế, những con người ấy đã ăn sắn, rau rừng, dành cơm cho tiền tuyến đánh Mỹ và họ đã gùi trên đôi vai sắt với bước đi chân đồng để các đơn vị quân giải phóng có tên lửa dội vào Đà Nẵng nhiều đến mức Mỹ phải gọi thành phố này là thành phố rocket.</td> </tr> </tbody> </table> Tất cả vì Đà Nẵng
Đà Nẵng - thành phố lớn thứ hai của miền Nam, nơi Mỹ đổ quân vào sớm nhất, với những đơn vị sừng sỏ nhất, đóng quân dày đặc, đánh phá dữ dội, thâm độc, bằng tất cả vũ khí, phương tiện kỹ thuật của siêu cường số 1, đã trở thành một căn cứ liên hiệp hải lục không quân khổng lồ của Mỹ, một trại tập trung cực lớn.
Đảng bộ Quảng Đà đã nhận thức rõ vai trò của đô thị trong cách mạng miền Nam, đã đánh địch ở đô thị bằng 3 mũi giáp công sắc nhọn. Đặc biệt thường xuyên dấy lên những phong trào quần chúng nổi dậy, nêu cao tinh thần yêu nước đấu tranh đuổi Mỹ, lật ngụy như phong trào chống chế độ gia đình trị họ Ngô của đông đảo Phật tử và đồng bào Đà Nẵng, phong trào chống Khánh, xóa bỏ Hiến chương Vũng Tàu (năm 1964), mạnh mẽ nhất là cuộc nổi dậy 76 ngày làm chủ thành phố mùa xuân 1966, rồi phong trào chống Thiệu dở trò độc diễn (năm 1971). Chúng ta đưa chiến tranh vào tận giường ngủ yên ấm của địch giữa lòng thành phố. Lực lượng nổi dậy của quần chúng nhiều phen làm rung chuyển sào huyệt cuối cùng của địch. Và mùa xuân 1975, cùng với những đòn tiến công sấm sét của lực lượng vũ trang, ngọn triều nổi dậy của đồng bào Đà thành góp phần quan trọng giải phóng Đà Nẵng hoàn toàn nguyên vẹn ngày 29-3, chấm dứt 117 năm bị nô lệ đọa đày của thành phố bên sông Hàn.
Trong cuộc chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ và mỗi người dân Quảng Đà đều ý thức rõ Đà Nẵng là mục tiêu cuối cùng. Tất cả vì Đà Nẵng cũng là tất cả để chiến thắng. Cần chi viện cán bộ cho Đà Nẵng, các huyện, thị và cả các xã trong tỉnh sẵn sàng dành những người ưu tú. Chi bộ 2 được hình thành từ các đảng viên ở xã bị địch xúc tác vào thành phố và các đồng chí do yêu cầu của Đảng phải đóng vai người nhập cư (một hình thái tổ chức không có trong điều lệ Đảng) có vai trò quan trọng trong phát triển thực lực đẩy mạnh phong trào đô thị.
<table class="image center" align="center" width="620"> <tbody> <tr> <td align="center">
Vùng nông thôn Quảng Đà là vùng đất màu mỡ dọc theo sông Thu Bồn, từng là một nơi sản vật phong phú, kinh tế phồn thịnh của Đàng Trong một thời.
Những năm chiến tranh cục bộ và sau đó là Việt Nam hóa chiến tranh, đây là vùng ác liệt nhất. Địch chà đi xát lại tiến hành chiến tranh hủy diệt, quyết đánh bật dân và xóa sạch mọi sự sống của con người ra khỏi vùng đất này để bảo vệ Đà Nẵng. Nhưng “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, chính ở đây Đảng bộ Quảng Đà đã phát huy lòng yêu nước của dân, thực sự gắn bó máu thịt với dân, nêu lên phương châm “4 bám” đầy sáng tạo và khí phách: Đảng bám dân, du kích bám địch, dân bám đất, trên bám dưới. Có nơi đâu trên hành tinh này lại diễn ra cuộc đụng đầu giữa những tên lính Mỹ nhà nghề và hiện đại với những người nông dân ít học, chân đất, súng thô, sáng ngời ý chí giữ đất và yêu nước của bà con mình như ở đây.
Quảng Đà - mảnh đất năm 1858, thực dân Pháp nã những loạt đại bác đầu tiên trong cuộc tiến công xâm lược nước ta; năm 1965, đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ đầu tiên cũng đổ bộ ở đây bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc và bi thảm.
Chỉ tồn tại trong hơn 12 năm (1963-1975), Đảng bộ Quảng Đà ý thức rõ điều ấy và nhận rõ sứ mệnh của mình. Lạ lùng thay, nơi ác liệt nhất, nơi từng đảng viên, từng chiến sĩ, nơi mỗi gia đình và từng người dân đều có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, hy sinh tổn thất không sao kể xiết lại là mảnh đất mọi người đều gắn bó tự hào.
Ai cũng nặng lòng yêu quê hương mình, với chúng ta còn hơn thế nữa, không chỉ là tình yêu quê hương xứ sở mà như thơ Thu Bồn “Đà Nẵng gọi ta như người mẹ gọi con/ Như người yêu gọi người yêu xa cách”.
Ai chẳng muốn, chẳng nghĩ quê hương mình là nơi địa linh nhân kiệt, chúng ta ý thức rõ đây là nơi đầu sóng, ngọn gió và mỗi người ở đây phải rèn mình, nâng mình để làm được, để làm tròn bổn phận người con của mảnh đất đi đầu.
Phải chăng điều mà Đảng bộ Quảng Đà đã ghi được điểm son chính là vun trồng, làm nảy nở nhận thức đó, ý chí đó trong đông đảo người dân nơi tuyến đầu để rồi họ chiến đấu và sống một cách tự nhiên trên chỗ đứng của mình theo cách của mình.
Mẹ Trương Thị Bưng (Điện Ngọc) với một nhành dương liễu trong tay chặn đầu đoàn xe Mỹ, buộc chúng phải đi theo hướng mình chỉ đã cho cả phong trào lời giải bài toán “có xáp vào Mỹ, có đấu tranh với Mỹ được không?”.
Chỉ 5 ngày sau khi đổ quân vào Phú Lộc, Mỹ hành quân càn quét vùng Hòa Liên và bị du kích đón đánh diệt ngay 7 tên. Các anh chị du kích Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc thay nhau ra vành đai diệt Mỹ Hòa Vang học và thực tập cách đánh Mỹ.
Anh giải phóng quân Huỳnh Dạn nêu gương nắm thắt lưng địch mà đánh, đã làm nên chiến thắng Gò Hà, diệt gọn đại đội Mỹ trong công sự của tuyến phòng ngự Đà Nẵng ngày 15-10-1965, đúng 1 năm sau ngày Nguyễn Văn Trỗi hy sinh.
“Đi theo ánh lửa từ trái tim mình”
Chuyện về con người, cuộc chiến đấu ở Quảng Đà nhớ sao cho đủ, nói sao cho hết. Lạ lùng thay, không chỉ cán bộ và người dân Quảng Đà yêu mến tự hào mảnh đất này. Đông đảo cán bộ các cơ quan Khu ủy 5 ngày ấy ai cũng muốn có dịp, nhiều dịp được cử đi công tác Quảng Đà. Nhận nhiệm vụ rồi nói nhỏ với nhau “Mình đi Quảng Đà đây”, là đồng chí, đồng đội đều hiểu đi đến nơi ác liệt nhất, đi đến nơi đầu sóng, ngọn gió; đi đến mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ; đi đến nơi ai cũng tha thiết muốn có mặt.
Với anh chị em văn nghệ sĩ càng tha thiết hơn. Đến với Quảng Đà là đến với sức hấp dẫn kỳ lạ của vùng đất lửa, cũng chính là “đi theo ánh lửa từ trái tim mình”. Đến với Quảng Đà cũng là có thể sẽ ngã xuống bất cứ lúc nào như Phương Thảo, Xuân Quý, Chu Cẩm Phong, Trọng Định, Vũ Phạm Chuân, Văn Cận.
Chắc rằng rồi đây không xa lắm chẳng còn ai nhắc, ai gọi đến cái tên Quảng Đà. Chao ôi, sao mà tiếc nuối. Nhưng dù vinh quang, tự hào đến thế nào, chúng ta đều biết cái tên Quảng Đà gắn với một thời lửa đạn, mảnh đất ra ngõ gặp anh hùng, về nhà gặp dũng sĩ này cũng là nơi chồng chất mất mát hy sinh mà chúng ta đã chiến đấu vì những khao khát hòa bình.
Chỉ mong những gì tốt đẹp, sáng trong mà những ngày lửa đạn tôi rèn cho con người trên mảnh đất này: Lòng yêu nước đầy trách nhiệm, ý thức công dân của những người ở tuyến đầu sẽ còn mãi, luôn luôn tươi mới trên cuộc đời này.
<table class="quote center" align="center" height="101" width="557"> <tbody> <tr> <td> Trong những ngày Mỹ dồn dập đổ quân vào Đà Nẵng, tháng 5-1965, Tiểu đoàn 1 được thành lập. Là đứa con yêu của Đảng bộ và nhân dân Quảng Đà, biệt danh R20 mau chóng trở thành niềm tự hào của người dân Quảng Đà.
Trên trời có phản lực cơ
Ở dưới mặt đất có R20
Bà con Điện Quang, Duy Châu nhớ mãi trận thắng của R20 ở Xuyên Thanh, Gò Nổi. Không hiểu hết ý nghĩa của việc một tiểu đoàn bộ đội địa phương đã diệt gọn một tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ mà nhớ hoài chuyện những tên lính Mỹ bị vây chặt, trực thăng đến tiếp tế bị bắn tới tấp, có tên phải xin cơm ăn vì đói quá.
Trong tổng tấn công Xuân Mậu Thân, 440 tinh binh của R20 được giao nhiệm vụ làm mũi nhọn đánh vào quân đoàn 1. Những chiến sĩ trẻ măng chưa một lần đặt chân vào Đà Nẵng được đồng bào che chở, vượt qua bao chặng đường nguy hiểm, chiều 30 Tết có mặt ở Cồn Dầu, Trung Lương. Phút giao thừa, một bộ phận đã qua Đò Xu, đến bên hàng rào Quân đoàn. Thế rồi, giờ G thay đổi, anh em ở vào thế bất lợi tiến thoái lưỡng nan, tất cả đã chiến đấu quả cảm và chỉ có 70 đồng chí trở về.
</td> </tr> </tbody> </table>
NGUYỄN ĐÌNH AN