quochungjoc89
New member
Ấn đầu người, cho dân tắt mặt, hay giả giấc mộng lạ... là "độc chiêu" xét án của những "Bao Thanh Thiên" nổi tiếng nước Nam.
Theo hồ sơ vụ án hình sự thì thời phong kiến, trong lĩnh vực hình án, việc xét xử những tội trạng, sự việc có chứng cứ rõ ràng chỉ cần căn cứ vào hình luật mà y việc. Nhưng với những việc cần điều tra, xét hỏi, việc nghị án không dễ chút nào bởi chứng cứ mất mát mà việc phục dựng hiện trường cũng không dễ tiến hành. Ấy thế nên nhiều vị pháp quan phải vận dụng trí thông minh tuyệt đỉnh của mình mà mở án những vụ khó khăn.
Phạt roi. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.
Trận hỏa hoạn nên duyên kiểm pháp. Ấn đầu người biết đến trước, sau
Tháng 2 năm Mậu Dần (1278), niên hiệu Bảo Phù năm thứ 6 thời trị vì của vua Trần Thánh Tông. Lúc này dân ta chết nhiều vì bệnh đậu mùa rất nhiều, một bệnh nằm trong “tứ chứng nan y” thời đó khi không có thuốc chữa.
Dạo ấy, nhà dân ở kinh thành thường bị cháy về ban đêm, chẳng biết do bị phóng hỏa hay đốt đống rấm (đống chấu) để xóa dịch bệnh. Vua Thánh Tông ra ngoại thành xem chữa cháy, Nội thư gia Đoàn Khung được đi theo hầu. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho hay, vua muốn biết người nào đến trước, đến sau tham gia việc chữa cháy, bèn sai quan Nội thư gia họ Đoàn điểm danh, báo cáo. Việc này thực khó, vì muốn biết ai đến trước đến sau, cứ hỏi chính người đó mới biết. Nhưng chắc không phải ai cũng tâu thật. Quan Đoàn Khung liền nghĩ ra một kế.
Ông tập hợp những người chữa cháy lại xếp thành hàng, rồi ấn đầu từng người một bảo ngồi xuống để đếm, đếm xong tâu rõ với vua người nào đến trước, người nào đến sau, quả nhiên không sai chút nào. Khâm phục tài năng của họ Đoàn, vua Thánh Tông bèn hỏi:
- Tại sao mà ngươi biết rõ thế được?
Đoàn Khung bấy giờ chắp tay mà rằng:
- Thần ấn đầu người nào mà thấy mồ hôi thấm tóc và có tro bụi bám vào thì đó là những người đến trước và cố sức chữa. Người nào đầu tóc không có mồ hôi mà tro bụi bay rơi là người đến sau không kịp chữa, vì thế mà biết.
Vua cho là giỏi, có ý cất nhắc để dùng. Nhưng 8 tháng sau, ngày 22 tháng 10 âm lịch cùng năm, Trần vua nhường ngôi cho con trai là Hoàng Thái tử Trần Khâm (tức là vua Trần Nhân Tông) rồi lên làm thái thượng hoàng. Ông về ở Bắc cung rồi đi tu, nghiên cứu Phật học, viết sách. Thời vua Anh Tông, nhớ lại việc của Đoàn Khung, vua liền cất nhắc viên Nội thư gia năm xưa, cho Đoàn Khung làm Kiểm pháp quan, khi xét án, hễ Anh Tông hỏi về điển lệ cũ, Đoàn Khung đều dẫn được án cũ làm chứng, có khi dẫn nhiều đến năm, sáu án. Vua Anh Tông khen viên Kiểm pháp quan họ Đoàn thông minh nhớ lâu và suy xét thấu đáo. Có được viên Kiểm pháp như thế, cũng là cái lợi cho dân nơi công đường, hình án.
Quan cho dân tát người, xét án ra thủ phạm
Đời vua Lê Hy Tông (1663 - 1716) thời Lê Trung hưng, lúc này đất nước phân chia, thiên hạ đại loạn, trộm cắp cũng theo đó mà nhiều vô số kể. Việc hình án cũng bởi thế mà tăng lên không ngừng. Chốn công đường cũng không khỏi nhiêu sự vụ khó khăn. Nhưng nhân tài Nguyễn Mại từ đó mà ló dạng.
Tù nhân. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.
Quan Nguyễn Mại, người làng Ninh Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương, năm 37 tuổi dự thi khoa Tân Sửu (1691) niên hiệu Chính Hòa đỗ Hoàng giáp, trong thời gian làm quan nhà Lê Trung hưng, ông được khen là: “có sức khỏe, có mưu lược, làm quan Thị lang Lễ bộ, ra trấn thủ Sơn Tây, có chính tích đặc biệt, trộm cướp phải nín hơi, xét kiện sáng suốt, danh vọng rất cao” (Trích Đại Nam nhất thống chí, phần Hải Dương tỉnh chí, mục Nhân vật chí).
Cái chính tích đặc biệt được nói tới ở trên, xảy ra lúc Nguyễn Mại đang làm quan trấn thủ tỉnh Sơn Tây. Thỉnh thoảng, quan trấn thủ hay ra ngoài công đường đi xem xét dân tình nơi mình trị nhậm. Cũng từ một trong những lần thực tế ấy, Nguyễn Mại đã xử một vụ án với cách xử hiếm lạ để người đời sau truyền tụng là quan xử án giỏi. Việc này, trong Đăng khoa lục sưu giảng của Thượng thư Trần Tiến đời vua Lê Hiển Tông (1717 - 1786) và sách Hải Dương phong vật chí còn ghi lại sự vụ. Theo đó, một hôm ông Nguyễn Mại đi bộ qua chợ Bảo Khám thuộc huyện Gia Bình (nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), thấy một người đàn bà mất một cái màn (Hải Dương phong vật chí viết vật bị mất là con gà), chắc xót của lắm nên chửi rủa mãi không thôi, lại lôi cả tam đời, ngũ đại nhà kẻ ăn trộm ra mà chửi.
Sau khi biết sự tình, ông cho gọi người đàn bà mất của lại hỏi chiếc màn đáng giá bao nhiêu tiền để ông trả. Sau ông sai lính trói người đàn bà ấy ở quán, rồi cho gọi làng xóm đến, vờ mắng người đàn bà bị trộm màn cái tội chua ngoa:
- Mất một cái màn đáng giá bao nhiêu tiền mà bà chửi tổ tông người ta?
Nói xong, ông sai tất cả đàn ông, đàn bà trong xóm ấy vả vào má người đàn bà mất màn vì tội chửi ngoa. Dân trong làng thương người đàn bà ấy lắm, bởi bà ăn ở cũng không đến nỗi nào, đã mất màn lại còn bị tát. Nhưng lệnh quan ra là phải theo, bởi vậy ai cũng phải tát bà ta, nhưng không nỡ tát mạnh. Duy chỉ có một người đàn bà trong làng ra sức tát thật mạnh. Bởi chính mụ này là kẻ ăn trộm, giận vì bị lôi cả tông tộc ra mà chửi nên tát thật mạnh cho sướng tay để trả thù. Nhưng mụ ta nào có biết ý của Nguyễn Mại. Mụ vừa tát xong, quan họ Nguyễn đã cho giữ lại, tra hỏi luôn:
- Chính ngươi đã ăn trộm màn nên mới động lòng mà đánh người ta đau như thế, tội ấy còn chối cãi sao được!
Quả nhiên kẻ ăn trộm màn chính là mụ ta. Chiếc màn được trả lại cho người bị mất, còn mụ đàn bà ăn trộm cứ chiểu theo luật mà định tội. Dân tình trong làng ai cũng khen quan Nguyễn Mại là thần minh, xét án công bằng, sáng suốt mà ít ai ngờ tới. Sau này khi quan Nguyễn Mại mất, người hạt Sơn Tây nhớ công đức của ông có làm bài Sơn Tây Đức chính ký ca ngợi công đức của vị pháp quan.
Lại cũng dạo đang làm quan, theo Hải Dương phong vật chí cho hay, ở ngôi chùa thuộc huyện Sơn Vi (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), các ni cô tụ họp ở đó, rồi một ni cô kêu mất chiếc xiêm lụa. Biết việc, Nguyễn Mại sai lập đàn cúng, rồi lệnh cho các ni cô một tay cầm tay người kia, một tay nắm ít thóc, cùng chạy quanh đàn cúng. Ông lại vờ bảo, ai là người gian tà thì thóc nắm trong tay sẽ nảy mầm. Các ni cô cứ thế tay cầm tay, lại tay nắm thóc chạy quanh đàn. Để ý, viên quan giỏi xử án thấy một ni cô thường hay hé tay để xem nắm thóc nảy mầm hay chưa. Đoán biết được kẻ trộm áo, ông cho mọi người ngừng chạy quanh đàn cúng, gọi ni cô kia đến bảo phải mau thú nhận. Đúng như quan sát của ông, ni cô ấy nhận tội. Cả chùa khen ông là tài.
Khi nói đến đất Hải Dương, người đời sau không thôi nhắc đến ông, như trong Đại Nam dư địa chí ước biên, Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục tán tụng rằng:
Có chính tốt, được dân Sơn Tây yêu mến, còn bia để lại, thì Nguyễn Mại, xứ Ninh Xá;
Ở nơi đầu sóng ngọn gió, xét án trên đầu voi thì Phạm Đình Trọng ở Khinh Giao.
Theo hồ sơ vụ án hình sự thì thời phong kiến, trong lĩnh vực hình án, việc xét xử những tội trạng, sự việc có chứng cứ rõ ràng chỉ cần căn cứ vào hình luật mà y việc. Nhưng với những việc cần điều tra, xét hỏi, việc nghị án không dễ chút nào bởi chứng cứ mất mát mà việc phục dựng hiện trường cũng không dễ tiến hành. Ấy thế nên nhiều vị pháp quan phải vận dụng trí thông minh tuyệt đỉnh của mình mà mở án những vụ khó khăn.

Phạt roi. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.
Trận hỏa hoạn nên duyên kiểm pháp. Ấn đầu người biết đến trước, sau
Tháng 2 năm Mậu Dần (1278), niên hiệu Bảo Phù năm thứ 6 thời trị vì của vua Trần Thánh Tông. Lúc này dân ta chết nhiều vì bệnh đậu mùa rất nhiều, một bệnh nằm trong “tứ chứng nan y” thời đó khi không có thuốc chữa.
Dạo ấy, nhà dân ở kinh thành thường bị cháy về ban đêm, chẳng biết do bị phóng hỏa hay đốt đống rấm (đống chấu) để xóa dịch bệnh. Vua Thánh Tông ra ngoại thành xem chữa cháy, Nội thư gia Đoàn Khung được đi theo hầu. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho hay, vua muốn biết người nào đến trước, đến sau tham gia việc chữa cháy, bèn sai quan Nội thư gia họ Đoàn điểm danh, báo cáo. Việc này thực khó, vì muốn biết ai đến trước đến sau, cứ hỏi chính người đó mới biết. Nhưng chắc không phải ai cũng tâu thật. Quan Đoàn Khung liền nghĩ ra một kế.
Ông tập hợp những người chữa cháy lại xếp thành hàng, rồi ấn đầu từng người một bảo ngồi xuống để đếm, đếm xong tâu rõ với vua người nào đến trước, người nào đến sau, quả nhiên không sai chút nào. Khâm phục tài năng của họ Đoàn, vua Thánh Tông bèn hỏi:
- Tại sao mà ngươi biết rõ thế được?
Đoàn Khung bấy giờ chắp tay mà rằng:
- Thần ấn đầu người nào mà thấy mồ hôi thấm tóc và có tro bụi bám vào thì đó là những người đến trước và cố sức chữa. Người nào đầu tóc không có mồ hôi mà tro bụi bay rơi là người đến sau không kịp chữa, vì thế mà biết.
Vua cho là giỏi, có ý cất nhắc để dùng. Nhưng 8 tháng sau, ngày 22 tháng 10 âm lịch cùng năm, Trần vua nhường ngôi cho con trai là Hoàng Thái tử Trần Khâm (tức là vua Trần Nhân Tông) rồi lên làm thái thượng hoàng. Ông về ở Bắc cung rồi đi tu, nghiên cứu Phật học, viết sách. Thời vua Anh Tông, nhớ lại việc của Đoàn Khung, vua liền cất nhắc viên Nội thư gia năm xưa, cho Đoàn Khung làm Kiểm pháp quan, khi xét án, hễ Anh Tông hỏi về điển lệ cũ, Đoàn Khung đều dẫn được án cũ làm chứng, có khi dẫn nhiều đến năm, sáu án. Vua Anh Tông khen viên Kiểm pháp quan họ Đoàn thông minh nhớ lâu và suy xét thấu đáo. Có được viên Kiểm pháp như thế, cũng là cái lợi cho dân nơi công đường, hình án.
Quan cho dân tát người, xét án ra thủ phạm
Đời vua Lê Hy Tông (1663 - 1716) thời Lê Trung hưng, lúc này đất nước phân chia, thiên hạ đại loạn, trộm cắp cũng theo đó mà nhiều vô số kể. Việc hình án cũng bởi thế mà tăng lên không ngừng. Chốn công đường cũng không khỏi nhiêu sự vụ khó khăn. Nhưng nhân tài Nguyễn Mại từ đó mà ló dạng.

Tù nhân. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.
Quan Nguyễn Mại, người làng Ninh Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương, năm 37 tuổi dự thi khoa Tân Sửu (1691) niên hiệu Chính Hòa đỗ Hoàng giáp, trong thời gian làm quan nhà Lê Trung hưng, ông được khen là: “có sức khỏe, có mưu lược, làm quan Thị lang Lễ bộ, ra trấn thủ Sơn Tây, có chính tích đặc biệt, trộm cướp phải nín hơi, xét kiện sáng suốt, danh vọng rất cao” (Trích Đại Nam nhất thống chí, phần Hải Dương tỉnh chí, mục Nhân vật chí).
Cái chính tích đặc biệt được nói tới ở trên, xảy ra lúc Nguyễn Mại đang làm quan trấn thủ tỉnh Sơn Tây. Thỉnh thoảng, quan trấn thủ hay ra ngoài công đường đi xem xét dân tình nơi mình trị nhậm. Cũng từ một trong những lần thực tế ấy, Nguyễn Mại đã xử một vụ án với cách xử hiếm lạ để người đời sau truyền tụng là quan xử án giỏi. Việc này, trong Đăng khoa lục sưu giảng của Thượng thư Trần Tiến đời vua Lê Hiển Tông (1717 - 1786) và sách Hải Dương phong vật chí còn ghi lại sự vụ. Theo đó, một hôm ông Nguyễn Mại đi bộ qua chợ Bảo Khám thuộc huyện Gia Bình (nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), thấy một người đàn bà mất một cái màn (Hải Dương phong vật chí viết vật bị mất là con gà), chắc xót của lắm nên chửi rủa mãi không thôi, lại lôi cả tam đời, ngũ đại nhà kẻ ăn trộm ra mà chửi.
Sau khi biết sự tình, ông cho gọi người đàn bà mất của lại hỏi chiếc màn đáng giá bao nhiêu tiền để ông trả. Sau ông sai lính trói người đàn bà ấy ở quán, rồi cho gọi làng xóm đến, vờ mắng người đàn bà bị trộm màn cái tội chua ngoa:
- Mất một cái màn đáng giá bao nhiêu tiền mà bà chửi tổ tông người ta?
Nói xong, ông sai tất cả đàn ông, đàn bà trong xóm ấy vả vào má người đàn bà mất màn vì tội chửi ngoa. Dân trong làng thương người đàn bà ấy lắm, bởi bà ăn ở cũng không đến nỗi nào, đã mất màn lại còn bị tát. Nhưng lệnh quan ra là phải theo, bởi vậy ai cũng phải tát bà ta, nhưng không nỡ tát mạnh. Duy chỉ có một người đàn bà trong làng ra sức tát thật mạnh. Bởi chính mụ này là kẻ ăn trộm, giận vì bị lôi cả tông tộc ra mà chửi nên tát thật mạnh cho sướng tay để trả thù. Nhưng mụ ta nào có biết ý của Nguyễn Mại. Mụ vừa tát xong, quan họ Nguyễn đã cho giữ lại, tra hỏi luôn:
- Chính ngươi đã ăn trộm màn nên mới động lòng mà đánh người ta đau như thế, tội ấy còn chối cãi sao được!
Quả nhiên kẻ ăn trộm màn chính là mụ ta. Chiếc màn được trả lại cho người bị mất, còn mụ đàn bà ăn trộm cứ chiểu theo luật mà định tội. Dân tình trong làng ai cũng khen quan Nguyễn Mại là thần minh, xét án công bằng, sáng suốt mà ít ai ngờ tới. Sau này khi quan Nguyễn Mại mất, người hạt Sơn Tây nhớ công đức của ông có làm bài Sơn Tây Đức chính ký ca ngợi công đức của vị pháp quan.
Lại cũng dạo đang làm quan, theo Hải Dương phong vật chí cho hay, ở ngôi chùa thuộc huyện Sơn Vi (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), các ni cô tụ họp ở đó, rồi một ni cô kêu mất chiếc xiêm lụa. Biết việc, Nguyễn Mại sai lập đàn cúng, rồi lệnh cho các ni cô một tay cầm tay người kia, một tay nắm ít thóc, cùng chạy quanh đàn cúng. Ông lại vờ bảo, ai là người gian tà thì thóc nắm trong tay sẽ nảy mầm. Các ni cô cứ thế tay cầm tay, lại tay nắm thóc chạy quanh đàn. Để ý, viên quan giỏi xử án thấy một ni cô thường hay hé tay để xem nắm thóc nảy mầm hay chưa. Đoán biết được kẻ trộm áo, ông cho mọi người ngừng chạy quanh đàn cúng, gọi ni cô kia đến bảo phải mau thú nhận. Đúng như quan sát của ông, ni cô ấy nhận tội. Cả chùa khen ông là tài.
Khi nói đến đất Hải Dương, người đời sau không thôi nhắc đến ông, như trong Đại Nam dư địa chí ước biên, Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục tán tụng rằng:
Có chính tốt, được dân Sơn Tây yêu mến, còn bia để lại, thì Nguyễn Mại, xứ Ninh Xá;
Ở nơi đầu sóng ngọn gió, xét án trên đầu voi thì Phạm Đình Trọng ở Khinh Giao.