Như bạn đã biết khá rõ, thế mạnh hiện nay của AMD thể hiện ở mảng điện toán bình dân và phổ thông, đặc biệt là các sản phẩm đồ hoạ tích hợp (IGP) có chi phí đầu tư thấp nhưng hiệu năng hơn hẳn các giải pháp cùng mức giá từ Intel. Hôm nay, chúng ta được gặp gỡ một model IGP khác : AMD 760G (760G) hay ATI Radeon HD 3000, được hiện thực hoá dưới cái tên MA78LMT-S2. Hãy chú ý rằng tuy tên gọi chiếc board có thành tố ’78′, nhưng con chip bên trong nó lại là ’76′.
Đôi nét về AMD 760G
Dù có số hiệu nhỏ hơn AMD 780G (780G), nhưng 760G thực chất là một phiên bản harvest lại của con chip có số hiệu lớn hơn. Tên mã của 780G là RS780 còn 760G là RS780L. Khác biệt rõ nhất giữa RS780 và RS780L nằm ở số lượng liên kết PCIe 2.0 : con chip đầu có 22 làn trong khi con chip sau chỉ có 20 làn. 2 làn PCIe “thiếu hụt” trên được AMD cấu hình cho 2 slot PCIe x1, nhưng nhà sản xuất (NSX) mainboard (MB) có thể khai thác 2 làn này hay không tuỳ ý của họ. Do vậy có một số model MB 780G có thiết kế ATX với đầy đủ các slot PCI / PCIe (6) theo chuẩn của AMD, nhưng cũng có một số model khác chỉ dùng thiết kế μ-ATX với ít hơn 2 slot PCI / PCIe (4).
Với trường hợp của 760G, về cơ bản con chip đã mất “sẵn” 2 làn PCIe trên nên thiết kế MB theo chuẩn của AMD cho model này sẽ là μ-ATX. Đây là cách AMD phân hoá thị phần các chipset của mình. Song vì có những NSX tạo ra các model 780G ở dạng μ-ATX nên bạn sẽ gặp tình trạng chiếc board 780G và 760G thoạt nhìn chả khác gì nhau (cùng kích thước PCB, cách sắp đặt các linh kiện, phối màu …). Riêng với trường hợp của MA78LMT-S2, cụm thành tố ’78′ đôi khi sẽ làm bạn nhầm lẫn đôi chút vì nghĩ đây là 780G (bản thân tôi cũng bị nhầm khi tìm driver, manual, BIOS của chiếc board).
Ngoài ra, để tăng mức “phân hoá giai cấp”, AMD cho phép 780G được hưởng lợi thế “bất công” với bộ nhớ DRAM gắn rời (tuỳ NSX quyết định) hay còn gọi là Side-port. 780G còn có mức xung mặc định là 500 MHz. Trong khi 760G bị “chèn ép”
khi phải vay mượn bộ nhớ hệ thống còn gọi là UMA và mức xung bị giới hạn ở mức 350 MHz. Nhân đồ hoạ của 780G được thương mại hoá dưới cái tên ATI Radeon HD 3200, của 760G là ATI Radeon HD 3000 cho thấy mức hiệu năng thấp hơn.
Phần còn lại của 2 con chip hoàn toàn giống nhau, vì như đã nói, 760G là bản harvest của 780G bị lỗi trong sản xuất.
Với thiết kế μ-ATX, hộp đựng MA78LMT-S2 không có gì đặc biệt với dạng vuông y như chiếc bánh chưng. Phụ kiện khá sơ sài gồm sách hướng dẫn, đĩa driver, nắp che backpanel I/O và cable SATA / PATA. Điều này bình thường vì đây là sản phẩm bình dân không dành cho dân chơi cao cấp.
Thoạt nhìn, MA78LMT-S2 gợi nhớ đến GIGABYTE 880GM-UD2H, một model chúng tôi từng review trước đây. Nhưng model 760G chỉ được trang bị 3 + 1 phase nguồn CPU và có ít slot gắn RAM hơn. Thực tế trong đa số trường hợp thì có ít người dùng bình dân nào trang bị nhiều hơn 2 module RAM cho PC của mình nên chi tiết này không có gì đáng phàn nàn.
Nguon: Voz.vn
Đôi nét về AMD 760G
Dù có số hiệu nhỏ hơn AMD 780G (780G), nhưng 760G thực chất là một phiên bản harvest lại của con chip có số hiệu lớn hơn. Tên mã của 780G là RS780 còn 760G là RS780L. Khác biệt rõ nhất giữa RS780 và RS780L nằm ở số lượng liên kết PCIe 2.0 : con chip đầu có 22 làn trong khi con chip sau chỉ có 20 làn. 2 làn PCIe “thiếu hụt” trên được AMD cấu hình cho 2 slot PCIe x1, nhưng nhà sản xuất (NSX) mainboard (MB) có thể khai thác 2 làn này hay không tuỳ ý của họ. Do vậy có một số model MB 780G có thiết kế ATX với đầy đủ các slot PCI / PCIe (6) theo chuẩn của AMD, nhưng cũng có một số model khác chỉ dùng thiết kế μ-ATX với ít hơn 2 slot PCI / PCIe (4).

Với trường hợp của 760G, về cơ bản con chip đã mất “sẵn” 2 làn PCIe trên nên thiết kế MB theo chuẩn của AMD cho model này sẽ là μ-ATX. Đây là cách AMD phân hoá thị phần các chipset của mình. Song vì có những NSX tạo ra các model 780G ở dạng μ-ATX nên bạn sẽ gặp tình trạng chiếc board 780G và 760G thoạt nhìn chả khác gì nhau (cùng kích thước PCB, cách sắp đặt các linh kiện, phối màu …). Riêng với trường hợp của MA78LMT-S2, cụm thành tố ’78′ đôi khi sẽ làm bạn nhầm lẫn đôi chút vì nghĩ đây là 780G (bản thân tôi cũng bị nhầm khi tìm driver, manual, BIOS của chiếc board).
Ngoài ra, để tăng mức “phân hoá giai cấp”, AMD cho phép 780G được hưởng lợi thế “bất công” với bộ nhớ DRAM gắn rời (tuỳ NSX quyết định) hay còn gọi là Side-port. 780G còn có mức xung mặc định là 500 MHz. Trong khi 760G bị “chèn ép”

Phần còn lại của 2 con chip hoàn toàn giống nhau, vì như đã nói, 760G là bản harvest của 780G bị lỗi trong sản xuất.
Với thiết kế μ-ATX, hộp đựng MA78LMT-S2 không có gì đặc biệt với dạng vuông y như chiếc bánh chưng. Phụ kiện khá sơ sài gồm sách hướng dẫn, đĩa driver, nắp che backpanel I/O và cable SATA / PATA. Điều này bình thường vì đây là sản phẩm bình dân không dành cho dân chơi cao cấp.



Nguon: Voz.vn