
Ao thuyền - nơi tránh bão của tàu thuyền tại Cù Lao Chàm
Ấy là chữ cù lao vốn là từ Hán – Việt mang nghĩa: cha mẹ siêng năng, khó nhọc để nuôi dưỡng con.
Theo Từ điển Từ cổ của Vương Lộc (NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 2002), cù lao được giải nghĩa: cái quai trên đầu quả chuông (“cù lao có hiệu hoa kình ở trên” – Chỉ Nam ngọc ân giải nghĩa; “Bây giờ tính nghĩ làm sao/ Cho chuông ấm tiếng cù lao vững vàng” – ca dao.
Còn một từ cù lao khác là danh từ được hiểu theo nghĩa: là phần đất hoặc là núi nổi lên giữa biển như cù lao Cỏ (thuộc tỉnh Quảng Trị), cù lao Chàm (thuộc tỉnh Quảng Nam), cù lao Ré (tức đảo Lý Sơn, thuộc tỉnh Quảng Ngãi)… – giống như từ “đảo”. Ở miền Tây Nam Bộ, cù lao nổi lên giữa sông nước, kiểu như vùng đất Gò Nổi ở Quảng Nam.

Bình minh Cù Lao Chàm

Biển xanh Cù Lao Chàm
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí viết: “… cách huyện Diên Phước 68 dặm về phía Đông, ngất ngưởng giữa biển gọi là đảo Ngoạ Long, cũng gọi là hòn Cù Lao, có tên nữa là Tiêm Bút, tên cổ là Chiêm Bất Lao; dân phường Tân Hợp ở phía Nam núi; ruộng đất trên núi có thể cày cấy, thuyền bè nước ta thường trông núi này làm chừng đi về đều đỗ ở đấy để lấy củi nước…”.

Cua đá
Thật thú vị khi chúng tôi có thời gian điền dã dài ngày tại xã đảo Tân Hiệp và đã sưu tầm được tại đây nhiều câu ca ngắn gọn mà có ý nghĩa khái quát rất cao, chân chất như tấm lòng bình dị của người dân vùng này. Xin được chép lại câu ca sau đây:
“Ra Lao đốn Lụi thật Dài
Chờ Mồ Khô Lá, xuống Tai chực Nờm”
Lao, Lụi, Dài, Mồ, Khô, Tai, Lá là 7 hòn đảo tại đây; trong đó Lao là hòn đảo lớn nhất, có dân cư; còn các đảo khác tuỳ theo hình dáng và thảm thực vật mà đặt tên cho dễ phân biệt, Khô có hai đảo là Khô Mẹ và Khô Con; Nờm là bãi nằm ở phía Nam bán đảo Sơn Trà thuộc Đà Nẵng.
Xin được trao đổi về nghĩa của từ “cù lao”.
nguồn:vanhien.com.vn